Lúc gọi tên họ mà họ không về được lại càng uất ức, đau khổ gấp bội! Bắt hồn người sống để "thế chỗ" cho mình? Vì thế để thoát khỏi cảnh khổ ấy họ tìm cách bắt một hồn người sống như xô đẩy, làm bị nạn cho kẻ khác chết ngay lúc đó! Để hoàn lại sự sống cho họ, buộc phải có nghi thức gọi hồn. Người nhà thường trèo lên mái nhà hoặc chạy ra ngã ba đường, vừa đi về vừa gọi hồn vía người bị nạn để mong họ có thể trở lại. 2. Thông qua đốt mùi hương những linch hồn hoàn toàn có thể giao tiếp với những người sinh sống, hoàn toàn có thể dịch chuyển cùng nhà hàng ăn uống. Thực tế hầu hết thức ăn uống sẽ lấy đi cúng lúc ăn uống lại thì xúc cảm mùi vị không được ngon. Ai có chức năng Thuật gọi hồn. Ma lon và cầu cơ là 2 thuật gọi hồn đơn giản trong dân gian. I/ MA LON. - Ko nhất thiết phải ra nghĩa địa, mà có thể tìm những nơi vắng vẻ ít người vào ban đêm ( gọi là “âm thịnh dương suy”) -Chuẩn bị : 1 lon sữa cỡ nhỏ, 1 điếu thuốc lá, 3 cây nhang Một người bị vong nhập tức là người đó không bình thường, có vấn đề về thần kinh hoặc tâm thần (nhẹ hoặc nặng). Nguồn gốc của hiện tượng vong nhập là sự tương tác của ám thị lạ và tự ám thị. Khi một người đi áp vong, hoặc lên đồng thường ngồi tập Và luôn có đầy tranh cãi xung quanh chủ đề này.Người ta tin rằng người chết đi có cuộc sống mới ở cõi âm vànhững linh hồn ấy vẫn còn sống mãi, người ta chết đi chỉ là cái chết về thểxác.Xem thêm: Lễ Trai Đàn Chẩn Tế Huế 2020 Tập 2, Trai Đàn Chẩn Tế Có một Dưới đây THPT Sóc Trăng sẽ hướng dẫn chi tiết cách làm để các em tham khảo, cùng với đó là tuyển tập những bài văn hay, ngắn gọn giúp các em có thêm ý tưởng làm bài. Bạn đang xem: Phân tích bài khi con tu hú | Phân tích bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu Cùng tham khảo nhé! sOFg2. Health+ Những lý giải của các nhà khoa học đã phần nào hé mở những bí mật về sự sống sau cái chết. Việc tin vào sự tồn tại của linh hồn ma sau khi chết đã có từ hàng nghìn đời nay. Có nhiều bằng chứng đã chứng minh điều này. Chỉ có điều việc gọi hồn người chết có ích lợi gì cho người đã mất và cuộc sống của người còn sống hay không? Việc tin vào sự tồn tại của linh hồn ma sau khi chết đã có từ hàng nghìn đời nay Lễ tẩy trần linh hồn của người Chăm18 linh hồn trong...1 xácTục Thiên táng ở Tây Tạng Để linh hồn bay lên phóng khoángSau khi đọc bài viết Gọi hồn người chết Sự thật được tỏ bày của tác giả Anh Nguyễn đăng trên báo điện tử với những gì tôi chứng kiến và cảm nhận, tôi xin nói lên ý kiến cá nhân của tôi về cõi đang xem Cách gọi hồn người thânNhững hiểu biết về thế giới cõi âm của tôi đến từ một người cháu họ có khả năng đặc biệt. Từ một người bình thường như bao người bình thường khác, bỗng một ngày cháu có khả năng nhìn thấu nội tạng cơ thể người, nhìn thấy và nói chuyện được với các vong hồn. Hàng ngày tôi được chứng kiến cháu làm lễ áp vong gọi hồn và đúc kết được một số quy luật của cõi âm như sau1. Người chết mà được đem đi thiêu xác thì sẽ được siêu thoát. Ngược lại nếu đem đi chôn thì gia chủ sẽ gặp rất nhiều vận hạn, trùng tang,… nếu người thân chết đúng giờ Thông qua đốt hương các linh hồn có thể giao tiếp với người sống, có thể di chuyển và ăn uống. Thực tế những thức ăn đã đem đi cúng lúc ăn lại thì cảm giác mùi vị không được ngon. Ai có khả năng nhìn thấy ma thì sẽ thấy ma ăn như thế nào. Cơ thể thay đổi thế nào khi thiền? Thay đổi để hạnh phúc! Ngại gì mà không kiếm tiền trong tháng "cô hồn"? 5 bí ẩn của sự sáng tạo Bẩm sinh hay tôi luyện? Nên đọc4. Tiền vàng âm phủ, quần áo giày dép đốt cho các linh hồn họ đều dùng được. Ô tô, xe máy, điện thoại, laptop,… họ không dùng được do không có xăng xe, điện lưới, sóng điện thoại,…5. Các linh hồn sẽ quanh quẩn nơi họ chết, nơi họ được thờ tự và nơi chôn xác họ. Những gia đình khi chuyển sang nhà mới mà không làm lễ rước vong theo thì các vong hồn sẽ vẫn ở lại nhà cũ. Họ tồn tại trong buồn chán, đói rách,… quấy phá gia chủ mới để mong được thờ cúng, được đáp ứng nguyện vọng...Thế giới cõi âm còn có nhiều tập quán và luật lệ khác nữa mà tôi không muốn bàn luận tiếp ở đây. Điều làm tôi băn khoăn nhất chính là Tại sao có những người khi còn sống không nhận được sự tôn trọng của gia đình, xã hội mà khi gọi hồn về thì mọi lời nói của họ lập tức trở thành khuôn vàng thước ngọc, mọi đòi hỏi của họ lập tức được đáp ứng? Tại sao những người còn sống lại quá sợ hãi những người đã chết như vậy? Phải chăng là thần quyền đang chi phối cuộc sống của chúng ta? Người chết đang điều khiển cuộc sống của người sống hay là nhà ngoại cảm, cô đồng đang lợi dụng những hiểu biết còn hạn chế của con người về cõi âm để trục lợi cho riêng mình?Cá nhân tôi nhận thấy, từ ngày cháu họ “phát lộc trời cho” thì cuộc sống trong gia tộc bị xáo trộn rất nhiều. Người chết nhập hồn rồi cứ nói này nói kia làm cho người sống quay ra giận dỗi, cãi nhau. Rồi thì cháu nói nhà người này có ma, nhà người kia có ma rồi kèm theo những lời cảnh báo này kia, ngày này qua ngày khác làm cho ai cũng sợ hãi vội vã làm lễ cúng trừ tà, hoặc là cúng cho yên chuyện với người sống. Rồi bỗng dưng vài người trong gia tộc theo gót cháu cũng đột nhiên nhìn thấy ma và nói chuyện với thêm Giáo Giới Hành Nghi - Pháp Thoại Hòa Thượng Thích Lệ TrangThiết nghĩ có cơ chế nào để quản lý những cô đồng, thầy pháp, nhà ngoại cảm tự phát? Có gì để chứng minh khả năng đặc biệt của họ? Mà họ có khả năng đặc biệt thật sự thì việc gọi hồn người chết lên nói chuyện để làm gì, điều đó có lợi gì cho người đã chết và người còn sống? Việc sử dụng khả năng ngoại cảm để tìm hài cốt liệt sĩ, đó là một việc làm nhân đạo nhưng cũng đang bị người sống lợi dụng trục lợi rất nhận thấy khi gọi hồn về thì các hồn ma luôn tỏ ra thái độ khó chịu và đòi hỏi rất nhiều, nhất là các hồn ma chết oan, chết không rõ thân nhân. Không biết đến họ thì có khi không sao, biết đến rồi thì dường như họ càng làm mình làm mẩy và làm loạn hơn. Vậy nếu cõi âm là có thật, hồn ma là có thật thì có cách nào để bảo vệ những người dân thường không có khả năng nhìn thấy ma và trừ ma? Đó là nỗi niềm thao thức của rất nhiều người Việt Nam khi có người thân mất. Tôi cũng vậy. Khi còn là một chàng trai trẻ, chứng kiến cái chết của ông bà, người thân, tôi đã luôn tự hỏi “Chết đi về đâu? Người thân mình sẽ về cảnh giới nào? Có nên gọi hồn để hỏi không? Làm thế nào để hương linh họ siêu thoát?... Vì thế, sau này, khi trở thành một nhà báo, có duyên với tâm linh, hàng ngày được tiếp xúc, làm việc với các nhà ngoại cảm nổi tiếng, có khả năng giao tiếp với cõi âm, tôi đã rất háo hức, mong muốn vén bức màn tâm linh kỳ bí ấy với biết bao nhiêu kỳ vọng. 15 năm nghiên cứu, khám phá về thế giới tâm linh huyền bí ấy, tôi đã thấy, đã ngộ nhiều điều. Song có những câu hỏi lớn cho mình, cho gia đình mình, cho dân tộc mình, trong đó, một trong những câu hỏi quan trọng nhất “Làm thế nào để người thân mình đã mất được siêu thoát?” tôi vẫn chưa trả lời được. Các nhà ngoại cảm cũng chưa ai giải đáp cho tôi một cách thấu đáo, thuyết phục. Những phương thức độ cho người mất có thể siêu thoát Phải đợi mãi đến năm 2013, khi tôi được Thiền sư Thích Nhất Hạnh mời đi Mỹ cùng Thầy trong chuyến hoằng Pháp đạo Phật dọc nước Mỹ. Suốt 3 tháng được nghe pháp, học giáo lý, thực hành chánh niệm… Rồi khi trở về Việt Nam, tôi vẫn không ngừng tu tập, nghiên cứu, đặc biệt là giáo lý Phật giáo nguyên thủy… Với những thực chứng, trải nghiệm cá nhân mình, nhờ nghiên cứu giáo lý, sách vở, bằng tham khảo ý kiến của các bậc chân tu, đến hôm nay, tôi mới tìm ra những con đường, phương pháp có thể giúp cho ông bà, cha mẹ, tổ tiên mình siêu thoát. Phương thức đầu tiên, hữu hiệu nhất, là tổ chức lễ cầu siêu phả độ gia tiên. Cầu siêu trong Phật giáo là pháp thức cầu nguyện ơn trên Tam bảo từ bi tiếp độ, tu tạo công đức để hồi hướng, và quan trọng nhất là vận dụng thần lực của tiếng kệ lời kinh khai thị giúp cho hương linh tỉnh thức mà xả bỏ lầm mê, sinh về Tịnh độ hay sinh lên những cảnh giới an lành. Pháp thức cầu siêu cần hội đủ 4 yếu tố. Thứ nhất Chư Phật, chư Đại Bồ Tát từ bi tiếp độ. Thứ 2 Chư Tăng Ni nhất tâm dốc lòng cầu nguyện, kệ kinh và khai thị. Thứ 3. Con cháu phát tâm chí thành, hết lòng hết sức hộ niệm và làm phước để hồi hướng cho hương linh. Thứ 4 Hương linh nương vào oai lực của Tam bảo, phước đức của gia đình hồi hướng cho, rồi tự tỉnh thức, giác ngộ mà siêu sanh. Trong bốn yếu tố trên, ba yếu tố đầu rất quan trọng. Cầu siêu phải có tâm thành kính. Trước hết chúng ta phải có tình thương và lòng kính trọng người đã khuất mà thực hành pháp sự siêu độ. Tình thương đó phải chân thành, biết đau xót và rung cảm trước cảnh khổ đau của người đã qua đời. Đó là tiếng chuông giao cảm Phật lực gia trì tâm nguyện của mình. Tình thương ấy chúng ta tìm thấy được qua hình ảnh các thánh giả đã từng cứu độ vong nhân. Ai đã đọc kinh Vu Lan mới thấy giọt nước mắt của ngài Mục Kiền Liên đã khóc vì thương mẹ đến cầu Phật chỉ dạy pháp cứu độ. Giọt nước mắt của Quang Mục và Thánh nữ Bà la môn trong kinh Địa Tạng khóc vì thương mẹ mà Phát tâm Bồ đề, nguyện thành Phật độ chúng sanh. Những giọt nước mắt ấy là tình thương, là tâm từ bi. Khi có tâm ấy mà cúng dường Tam Bảo, cúng dường Trai Tăng, hay cúng dường chùa chiền và tất cả điều lành khác đều có hiệu ứng thiết thực. Do có tâm như vậy mà mẹ của ngài Mục Kiền Liên, mẹ của Quang Mục và mẹ của thánh Nữ Bà la Môn được siêu thoát. Phương thức thứ hai là nên thường xuyên cúng dường Tam Bảo, cúng dường trai tăng, làm nhiều việc thiện nguyện… rồi hồi hướng công đức ấy cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Phương pháp này bắt nguồn từ điển tích nổi tiếng Mục Kiền Liên cứu mẹ thoát khỏi địa ngục. Chuyện rằng Mục Kiền Liên có một người mẹ tên là Thanh Đề. Sinh thời, bà là người sống xa hoa, làm nhiều việc bất thiện, thường phỉ báng tăng chúng. Vì thế, sau khi chết, bà bị đày xuống 9 tầng địa ngục. Mục Kiền Liên vốn là một tu sĩ thuộc đạo Bà Là Môn, sau quy y và trở thành một đệ tử lớn của Phật, được liệt vào hạng thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử của Phật. Sau khi chứng quả A La Hán, Mục Kiền Liên nhớ về mẫu thân, bèn dùng huệ nhãn nhìn xuống cõi khổ và thấy mẹ mình bị đọa vào kiếp ngạ quỷ quỷ đói nơi địa ngục A Tì. Nhìn mẹ thân hình tiều tụy, đói không được ăn, khát không được uống, Mục Kiền Liên vận dụng phép thần thông đến với mẹ và dâng cơm cho mẹ ăn. Nhưng ác nghiệt làm sao, những hạt cơm cứ gần tới miệng mẹ thì bỗng hóa thành lửa. Không có cách nào khác, Mục Kiền Liên trở về bạch chuyện Đức Phật, xin được chỉ dạy cách cứu mẹ. Đức Phật dạy rằng“Vì nghiệp chướng của các kiếp trước mà mẹ ông phải sinh vào nơi ác đạo làm loài ngạ quỷ. Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để vận động chư tăng. Hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó”. Vâng lời Đức Phật, Mục Kiền Liên thành kính đi rước chư tăng khắp mười phương về, đặc biệt là các vị đã đạt được sáu phép thần thông, nhờ công đức chú nguyện của các vị này thì vong linh mẹ Mục Kiền Liên mới thoát khỏi khổ đạo. Phật lại dạy Mục Kiền Liên sắm đủ các món thức ăn, hương dầu đèn nến, giường chõng chiếu gối, chăn màn quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay… dâng cúng các vị chư tăng vào đúng dịp Rằm tháng 7, lập trai đàn để cầu nguyện. Trước khi thọ thực, các vị chư tăng sẽ nhất tâm chú nguyện cho cha mẹ và ông bà bảy đời của thí chủ được siêu thoát… Mục Kiền Liên làm đúng như lời Phật dạy. Quả nhiên vong mẫu của ông được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ mà sinh về cảnh giới lành. Song nói như vậy, không có nghĩa là cứ làm lễ cầu siêu, cúng dường Tam bảo, làm việc thiện nguyện rồi hồi hướng cho hương linh người mất là được siêu thoát. Thực tế cho thấy, có nhiều lễ cầu siêu mà hương linh vẫn chưa siêu. Nguyên do là, chư Phật luôn từ bi tiếp độ, chư Tăng Ni luôn nhất tâm cầu nguyện, gia đình luôn hết lòng lo tổ chức lễ mà hương linh vì vô minh, tội nghiệp, thù oán, chấp thủ… quá nặng nề quyết không thức tỉnh, lấy khổ làm vui thì làm sao siêu thoát? Hơn thế, theo giáo lý Nhân quả-Nghiệp báo, những nỗ lực của người thân hướng về hương linh như tạo phước, cầu nguyện… chỉ trợ duyên, ảnh hưởng tốt đến hương linh được phần nào thôi chứ không can thiệp sâu vào khuynh hướng tái sinh của họ. Vì mỗi người đều phải thừa tự’ nghiệp lực của chính mình. Để được giải thoát, tự thân hương linh phải tỉnh thức và hướng thiện. Không ai có thể cứu vớt chúng ta ngoại trừ những nỗ lực tu tập của chính chúng ta. Thế Tôn đã dạy “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi. Hãy tự mình nương tựa hòn đảo chính mình”. Thời Đức Phật còn tại thế, ngày nọ, có một chàng trai trẻ tìm đến Ngài quỳ lạy mà khóc rằng “Bạch Thế Tôn, cha con đã chết. Xin mời ức Phật đến nhà cầu nguyện, cứu độ linh hồn cha con để ông ấy có thể đi lên Thiên đàng. Con thấy các giáo sĩ Bà La Môn cũng cử hành những nghi thức này. Song ức Phật lại còn mạnh hơn họ nhiều. Nếu Ngài làm điều đó, chắc chắn hồn cha con sẽ bay thẳng về Thiên đàng”. Nghe vậy, ức Phật mỉm cười bảo “Rất tốt. Con hãy ra chợ mua về cho ta hai cái bình đất và một ít bơ”. Chàng trai trẻ cúi đầu lạy tạ, trong lòng khấp khởi mừng vui vì ức Phật đã hạ cố thi hành phép thần thông để cứu linh hồn cha mình. Anh vội vã ra phố, mua đầy đủ các thứ mà Đức Phật yêu cầu rồi hớt hải quay trở lại. Theo chỉ dẫn của ức Phật, chàng trai đổ bơ vào một chiếc bình còn chiếc kia đổ đá rồi ném cả hai xuống ao. Chỉ trong tích tắc, hai chiếc bình đều chìm xuống đáy. ức Phật bảo “Bây giờ con hãy lấy cây gậy và đập vỡ chúng”. Chàng trai trẻ làm theo. Hai chiếc bình vỡ tan. Bơ nhẹ nổi đầy trên mặt ao còn những hòn đá nặng thì vẫn chìm dưới đáy. ức Phật mỉm cười bảo “Bây giờ con hãy đi mời những thầy tu đến đây. Hãy nói với họ tụng kinh làm sao để bơ chìm xuống và viên đá nổi lên”. Chàng trai nhìn ức Phật, sửng sốt nói “Bạch ức Thế Tôn! Ngài nói thật hay đùa đấy ạ? Chắc chắn không ai có thể cầu nguyện để làm cho bơ nhẹ mà chìm và đá nặng mà nổi. iều đó trái ngược với quy luật tự nhiên”. ức Phật cười “Này con! Nếu khi sống, cha con có một cuộc đời lương thiện thì nghiệp của ông ấy cũng nhẹ như bơ, cho dù thế nào thì ông cũng lên Thiên đàng. Không ai có thể cản được, ngay cả đến ta. Còn nếu cha con có một cuộc đời bất thiện thì cũng giống như hòn đá nặng kia, ông ấy sẽ bị chìm vào địa ngục. Dù tụng kinh nhiều đến đâu đi nữa bởi tất cả các thầy tu trên thế giới này cũng không thể làm gì khác được”. Không nên gọi hồn người mất, nhất là thỉnh vong oan gia trái chủ Nhiều người khi ông bà, cha mẹ mất, thường đi gọi hồn xem hương linh có siêu thoát không? Theo tôi, không nên. Bởi thứ nhất, trừ các bậc Thánh thành tựu thiên nhãn minh biết rõ sự sanh tử của chúng sinh, hầu hết người phàm như chúng ta không thể biết được. Thứ hai, trải qua nhiều năm nghiên cứu về tâm linh, tôi thấy, việc gọi hồn, không phải bao giờ cũng chính xác, ngay cả với những nhà ngoại cảm có khả năng đích thực. Vì đôi khi, có hiện tượng vong giả vong. Nghĩa là vong linh nhập vào nhà ngoại cảm trò chuyện với mình, không phải vong linh người thân mình. Cho nên, khi đi gọi hồn, dù đó là nhà ngoại cảm nổi tiếng đến đâu, người đi thỉnh cũng cần phải hết sức tỉnh táo. Phải căn cứ vào những thông tin mà vong cung cấp, nhất là những chi tiết “độc”, thuộc dạng “thâm cung bí sử” của đời mình, của gia đình mình mà xác định đó có phải là vong người mình cần gặp hay không? Hơn 20 năm về trước, khi tôi bắt đầu nghiên cứu về tâm linh, chưa biết nhiều về đạo Phật, chưa tu tập theo chánh pháp, tôi cũng thường đi gọi hồn người thân. Nhưng sau này, khi biết đến đạo Phật, hành trì theo chánh pháp, tôi không bao giờ đi gọi hồn nữa và cũng thường khuyên mọi người không nên làm việc đó. Bởi tôi hiểu, người thân mình đã chết, họ thuộc về cảnh giới khác. Việc gọi họ về, chỉ khiến họ thêm luyến tiếc, nhớ nhung cõi trần, rất khó để siêu thoát. Đó là chưa kể nhiều tà ma giả làm người nhà mình nói năng, phán xét linh tinh, bừa bãi, sẽ gây những hoang mang, sợ hãi, đau khổ, đổ vỡ cho mình. Nếu thực sự mình yêu ông bà, cha mẹ, mong muốn họ siêu thoát thì hãy tích cực làm việc thiện rồi hồi hướng năng lượng ấy cho họ. Và nếu như chúng ta là người biết tu tập, hãy mời họ về tu tập cùng. Mời bằng cách nào? Không phải gọi hồn, thỉnh vong. Theo tuệ giác của thiền sư Thích Nhất Hạnh, tổ tiên, ông bà, cha mẹ không ở bên ngoài mình mà ở bên trong mình, trong từng tế bào cơ thể của mình. Vì thế, nếu như mình tu tập tốt, mỗi hơi thở, mỗi bước chân của mình có hạnh phúc, có an lạc thì tổ tiên, ông bà, cha mẹ mình sẽ hạnh phúc, an lạc theo. Mình tu cho mình nhưng mình cũng tu cho tổ tiên. Những năm gần đây, tôi luôn tích cực tu cho tôi, tu cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Mỗi khi tôi ngồi thiền, tụng kinh, nghe pháp thoại của các thiền sư hay tham gia những khóa tu, tôi đều mời tổ tiên, ông bà, cha mẹ… tu cùng tôi. Có một thực tế đáng báo động xảy ra những năm gần đây, một số người thấy cuộc đời không được như ý muốn nên không chỉ đi gọi hồn người thân để hỏi mà còn thỉnh vong oan gia trái chủ. Việc đó, theo tôi, rất không nên làm. Nhân quả - nghiệp báo là một trong những thuyết nổi tiếng của đạo Phật. Theo quan điểm nhà Phật, cuộc đời mỗi con người trải qua nhiều kiếp sống. Ngoài hiện kiếp – kiếp sống hiện tại, còn có tiền kiếp và hậu kiếp. Thông thường, kiếp sống hiện tại của mỗi người sẽ chịu nhiều ảnh hưởng từ tiền kiếp. Nếu muốn biết kiếp trước mình thế nào thì hãy xem quả của kiếp này. Nếu muốn biết kiếp sau thế nào thì hãy xem nhân gieo kiếp này. Phàm là con người, nhất là những người có niềm tin vào tâm linh, ít nhất một đôi lần trong đời tò mò muốn biết kiếp trước mình là ai, mình sống như thế nào? Vì thế, nhiều người đã tìm đến các ông đồng, bà cốt, thầy bói để soi căn. Song khả năng thần thông nhìn lại được quá khứ, thấy trước được tương lai là điều không dễ dàng. Chỉ có các bậc thiền định lâu năm, tu hành đắc đạo mới có thể chứng đạt được. Khi sinh thời, đức Phật có rất nhiều khả năng thần thông, phép lạ nhưng Ngài không bao giờ đề cao thần thông bởi nó khiến cho người ta si mê mù quáng, điên đảo. Nếu bám vào nó sẽ gây trở ngại cho sự giác ngộ chân lý, giải thoát khổ đau, thoát vòng sinh tử luân hồi. Theo Đức Phật, có ba loại thần thông. Một là, biến hóa thần thông - năng lực làm các phép lạ như bay lên không trung, đi trên mặt nước, xuyên qua vách đá, biến hình, ẩn thân… Hai là, tha tâm thần thông - khả năng biết được tâm niệm, suy nghĩ của người khác, biết tiền kiếp, hậu kiếp. Ba là, giáo hóa thần thông, năng lực giáo hóa, đưa con người từ mê đến ngộ, từ kẻ xấu thành người tốt, từ đau khổ đến an lạc. Các loại thần thông, phép lạ như biến hóa thần thông, tha tâm thần thông chẳng những không mang lại nhiều lợi ích cho người sử dụng mà còn gây ra nhiều tác hại một khi người sử dụng có tâm ý bất chính, lợi dụng thần thông để thỏa mãn lòng tham lam, sân hận của mình. Ví như hại người cướp của, phục vụ hoặc tiếp tay cho kẻ xấu ác, hay vì thù oán mà gây hại cho người. Bởi vậy, theo Đức Phật, thần thông không thể mang lại an lạc hạnh phúc, không thể giải thoát những khổ đau. Thần thông chỉ là kết quả của sự tu luyện tinh thần mà ai cũng có thể làm được kể cả tà ma, ngoại đạo. Thần thông không phải là tiêu chuẩn để đánh giá nhân cách, phẩm hạnh đạo đức của một con người hay mức độ tu hành, giác ngộ của người tu đạo. Chỉ có từ bi và trí tuệ mới mang lại an lạc hạnh phúc cho con người và giáo hóa thần thông mới giúp cho người khác có nhận thức và sự rèn luyện, tu tập để có được từ bi và trí tuệ. Nói về Nhân quả, nghiệp báo, Đức Phật dạy rằng tất cả HỌA và PHÚC đều là do NHÂN QUẢ mà thành. Bởi vậy, muốn biết quá khứ chúng ta đã gieo nhân gì thì cứ nhìn cái quả mà chúng ta đang có. Muốn biết tương lai chúng ta ra sao thì cứ nhìn cái nhân chúng ta đang gieo trồng trong hiện tại. Gieo nhân nào thì gặt quả đó. Thành công hay thất bại không do ai ban phát mà do chính chúng ta tạo nên. Tất cả đều bắt nguồn từ thân, khẩu và ý. Nhân duyên xấu do chúng ta tạo tác sẽ trổ ra quả xấu. Nhân duyên lành sẽ trổ quả tốt. Hiểu đúng về nhân quả, tin vào nhân quả, nếu ai đó đã từng tạo nghiệp ác trong quá khứ, nay báo ứng nhân quả đến thì không nên sợ hãi, buồn rầu, khóc lóc, chỉ cần bình thản đối diện, tin sâu Phật pháp, chí tâm tu hành, nhất định sẽ chuyển xoay ác cảnh thành thiện cảnh. “Ác hữu ác báo, thiện hữu thiện báo”. Những gì chúng ta tạo tác hành động, từng cử chỉ, từng niệm khởi, theo sau đều có quả báo. Tất cả mọi nỗi thống khổ của con người chẳng phải do ông Trời làm ra mà chính là do những tư tưởng xấu, hành động ác do chính con người đã tạo trong đời này hay đời trước. Muốn cải đổi vận mệnh chỉ có một con đường duy nhất là năng làm việc lành, tích chứa âm đức, không sát sinh, làm lợi cho người. Còn nếu có duyên nữa, tinh tấn tu hành, đắc được Phật pháp thì sẽ tìm thấy con đường thoát khổ siêu sinh. Vì thế, theo tôi, việc thỉnh vong để giải nghiệp là việc làm trái với giáo lý nhà Phật, chúng ta không nên làm. Cầu mong ai cũng có một vị Phật vững chãi trong Tâm để quay trở về “hải đảo tự thân”, nương tựa vào chính mình, để không phải hớt hải, sợ hãi, hoang mang, giao tính mạng mình, tài sản mình, tương lai của mình vào tay ông thầy bà cốt nào đó. Cầu mong cho tất cả mọi người tâm luôn an để thế giới an. Tâm luôn bình để thế giới bình. Trích trong tập phóng sự “Nhân quả và Phật pháp nhiệm màu” tập 3, dự kiến phát hành ngày 12/ 7/2021. Chắc hẳn đã không ít lần chúng ta nghe tới cụm từ “gọi hồn” trong cuộc sống thường ngày. Tuy nhiên, chính xác hiện tượng gọi hồn là gì và gọi hồn người chết có thật không thì không phải ai cũng biết. Tham khảo bài viết sau của chúng tôi để có thêm cho bản thân nhiều thông tin hữu ích nhé! Gọi hồn là hiện tượng linh hồn người khác, có thể là thánh thần hoặc những người đã chết nhập vào cơ thể của người đang còn sống. Sau đó, điều khiển người sống đưa ra các chỉ dẫn, mong muốn của linh hồn. Hiện tượng này giống với nhập hồn hoặc lên đồng thật. Hiện tượng gọi hồn là gì? Theo một số tài liệu nghiên cứu về văn hóa, tôn giáo thì nhập hồn cũng là một trong những hoạt động tôn giáo có nguồn gốc từ xa xưa của con người. Gọi hồn là một trong những trạng thái tâm lý đặc biệt và có thể coi là một trạng thái bệnh lý xuất phát từ vô thức. Theo Tổ chức Y tế thế giới thì hội chứng lên đồng được xếp vào danh mục các loại bệnh tâm thần. Một người bị vong nhập tức là người có vấn đề về thần kinh, không bình thường hoặc tâm thần có thể là nhẹ hoặc nặng. Hiện tượng vong nhập có nguồn gốc là sự tương tác của ám thị lạ và tự ám thị. Khi một người đi áp vong thì thường ngồi tập trung như ngồi thiền để đầu óc trống rỗng. Lúc này, bộ não sẽ trở về trạng thái vô thức nhưng người đó vẫn nhận biết xung quanh. Đồng thời, tiếp nhận các ám thị lạ như về đau thương, về liệt sĩ, về chiến trận qua nhà ngoại cảm hoặc thầy pháp. Một người bị vong nhập tức là người có vấn đề về thần kinh, không bình thường hoặc tâm thần Gọi hồn người chết có thật không? Trong giới khoa học thì việc tồn tại hay không tồn tại sự sống sau cái chết vốn là một đề tài gây nên nhiều tranh cãi rất lớn. Trong đó, hầu hết mọi người đều không tin vào sự hiện diện của thứ gọi là “thế giới bên kia” và “linh hồn”. Tuy nhiên, cũng có không ít người thì luôn tìm kiếm những bằng chứng để chứng minh điều ngược lại. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho các nhà khoa học Anh quyết định thực hiện một nghiên cứu với quy mô cực kỳ lớn, với sự góp mặt của hơn 2000 người. Và cuối cùng, kết luận được tìm ra đã thực sự gây sốc cho không ít người đó là sự sống sau cái chết vẫn tồn tại. Không chỉ vậy, các nhà khoa học còn đưa ra được rất nhiều bằng chứng cực kỳ thuyết phục. Gọi hồn người chết có thật không? Vậy nên nếu bạn thắc mắc “Gọi hồn người chết có thật không?” thì câu trả lời chính là có. Tuy nhiên, theo quan điểm của Phật giáo thì người chết quan trọng nhất là được sớm đầu thai để bắt đầu một cuộc sống khác. Bởi cõi âm chỉ như là một trạm tạm thời để dừng nghỉ trước khi chuyển từ kiếp này sang kiếp khác. Và không ai ở cõi âm mãi, nên người sống không nên chú trọng đến nó quá. Bên cạnh đó, cũng có những người đầu thai ngay sau khi vừa chết nhưng cũng có người thời gian đầu thai là lâu hơn. Tuy nhiên, hầu hết đều chỉ trong khoảng 49 ngày là sẽ đầu thai. Nhưng cũng sẽ có những trường hợp sẽ lâu hơn do có sự can thiệp, níu kéo của người trần. Vậy nên, nếu gọi hồn chỉ để hỏi người chết có ước nguyện gì không, có thiếu gì không thì đều là những việc vô ích. Bởi vì sau khi đầu thai, người chết đều sẽ quên sạch ký ức. Còn nếu linh hồn người chết đang ở ngạ quỷ thì khi người sống gọi hồn chỉ càng khơi gợi thêm lòng tham trong những linh hồn. Từ đó, vô tình đẩy linh hồn của những người đã chết khó thoát ra khỏi ngạ quỷ. Theo quan điểm của Phật giáo thì việc gọi hồn người chết là điều không nên làm Người chết đáng lẽ nên đi đầu thai để có cuộc sống mới nhưng càng lưu luyến hay hoang mang thân xác cũ và người thân, thì lại cứ lang thang, vất vưởng. Cộng thêm việc người sống gọi hồn sẽ khiến cho sự níu kéo càng dài thêm và khiến cho việc đầu thai càng chậm trễ. Thế nên, gọi hồn không những không có lợi mà còn có thể gây hại. Vì vậy, người sống thay vì gọi hồn thì hãy cầu nguyện, làm các việc tốt tạo phước, tích phúc tích đức, sám hối,trì Kinh, niệm Phật, mong cho người thân cả mình sớm được siêu thoát và đầu thai vào cõi tốt hơn. Lời kết Chắc hẳn với những thông tin bên trên, bạn đọc đã biết được hiện tượng gọi hồn người chết có thật không rồi phải không? Nhìn chung, đây là một việc làm không mang đến nhiều lợi ích. Đồng thời, chúng còn dễ bị những kẻ xấu lợi dụng sự mê muội của con người mà làm những việc nhằm trục lợi cho bản thân. Vậy nên, hãy bình tĩnh, suy xét kỹ càng khi có ý định thực hiện nhé! Sự sống của con người duy trì bởi linh hồn trú ngụ trên thể xác. Nếu ai đó mất đi hồn phách thì người sống chỉ là một tảng thịt không hồn, không suy nghĩ, sống không mục đích. Vậy 3 hồn 7 vía là gì? Cách gọi hồn phách của người mất ra sao? Hãy cùng ngayam tham khảo qua bài viết dưới đây nhằm đem lại cuộc sống bình yên và hạnh phúc. 1. Ba hồn là gì? Theo quan niệm người xưa, sự sống của con người duy trì bởi 2 phần là thể xác và linh hồn. Mọi hoạt động như ăn nói, đi lại của con người nhờ vào linh hồn trú ngụ trên thể xác. Nếu ai đó không có linh hồn thì sự sống ở đây chỉ là một tảng thịt không lối sống, không suy nghĩ, sống không mục đích. Khi con người chết đi, thể xác có thể thối vữa tan biến đi nhưng linh hồn thì vẫn tồn tại và bất tử theo thời gian. Theo Đạo giáo thì 3 hồn là tổ hợp 3 bộ phận thần khí của con người tạo nên chính là Thai Quang, Sảng Linh và U Tinh. Con người có thể mất 1 hoặc 2 linh hồn nhưng vẫn có thể duy trì sự sống. Tuy nhiên nếu mất cả 3 linh hồn thì bạn sẽ trở thành một các xác không hồn, là người thực vật. 1. Hồn Thai Quang Thai Quang là 1 trong 3 hồn quan trọng nhất của con người. Để duy trì sự sống, con người không thể đánh mất hồn này. Nếu đánh mất hồn Thai Quang coi như bạn đã chết, gọi theo y khoa là chết lâm sàng. Nếu cơ quan trong thể xác để chết, ngưng hoạt động. 2. Hồn Sảng Linh Trong thực tế có rất nhiều người có khả năng siêu phàm, họ có thể dự đoán trước sự việc tương lai. Nói chính xác là họ có khả năng thiên phú trời ban. Sảng Linh quyết định chủ yếu đến trí lực, trí tuệ của con người. Điều này ảnh hưởng đến phản ứng nhanh chậm của con người trong cuộc sống. Chính vì vậy Sảng Linh chính là một bộ phần của linh hồn con người. Vì vậy ông bà xưa có câu “sinh ra đã biết là đệ nhất, học rồi mới biết chỉ là đệ nhị”. Trong cuộc sống những người bị thiểu năng, kém thông minh, chính là người đã mất đi Sảng Linh. Mặc dù mất 1 trong 3 hồn nhưng họ vẫn duy trì được sự sống, nhưng không gặt hái nhiều thành công trong cuộc sống. 3. Hồn U Tinh U Tinh là 1 trong 3 hồn quyết định sự sống của con người. Nó quyết định tính cách của con người, quyết định sự thành công trong tương lai. Đôi lúc trong cuộc sống, bạn mất đi lý trí, thiếu bình tĩnh. Điều này khiến tinh thần giảm sút ảnh hưởng đến sự nghiệp, công việc làm ăn. Khi bạn gặp chuyện buồn, đau khổ trong cuộc sống khiến tâm trạng kiệt quệ. Điều này chính tỏ bạn đã mất đi hồn U Tinh. Tuy nhiên đi hồn này nên bạn vẫn tiếp tục sự sống nhưng ảnh hưởng rất lớn đến công việc và sự nghiệp. 2. Bảy vía là gì? 7 vía hay còn gọi là Thất Phách. Theo Đạo Giáo thì 7 vía bao gồm Thi Cẩu, Phục Thỉ, Tước Âm, Thôn Tặc, Phi Độc, Trừ Uế và Xú Phế. Theo quan niệm trong tâm lình thì người nam có 7 vía, người nữ có 9 vía. Thất Phách có vai trò rất quan trọng trong việc điều tiết và duy trì sự sống của con người. Mỗi phách đảm nhận một nhiệm vụ riêng như hô hấp, sinh sản,… Theo Đạo Giáo thì con người sinh ra sống khỏe mạnh được 7 ngày gọi là Lạp hay gọi là Cữ ứng với 1 vía. Sau 49 ngày thì người này được 7 vía và trở thành người thực sự. Lưu ý cách tính này được áp dụng cho bé trai 7 ngày, con gái là 9 gái. Do đó ông bà xưa thường nói “3 hồn 7 vía dành cho nam”; “3 hồn 9 vía dành cho nữ”. Với những người chết đi, sau 7 ngày mất được gọi là 1 kỳ tang ứng với 1 vía đã mất đi. Sau 49 ngày là 7 kỳ tang ứng với 7 vía đã mất. Lúc này linh hồn và thể xác của người mất hoàn toàn bị tách hẳn, thể xác sẽ thối vữa còn linh hồn bất tử theo thời gian. Tronng kinh Phật thì 7 kỳ tang này chính là 7 lần phán xét, mỗi lần mất đi 7 ngày. Cách gọi 3 hồn 7 vía của người mất Tùy theo trường hợp mà cách gọi hồn vía của người mất khác nhau. Dưới đây là cách gọi hồn phách theo kiểu dân gian hay áp dụng. Với người miền Nam, nếu ai sắp lâm chung, người ốm “thập tử nhât sinh” hoặc gặp tai nạn bất tỉnh nhân sự. Tính mạng bị đe dọa, sự sống tính từng phút giây. Lúc này cách gọi hồn bằng cách trèo lên mái nhà hoặc chạy ra ngã bảy, ngã ba mà thể xác người này vừa đi qua để họ biết đường về nhà. Mong linh hồn người mất đừng bỏ đi mà tìm về nhà để tìm cách siêu thoát. Với người miền Bắc, người chết đuối, trôi sông thì người thân sẽ dùng sàng, sàng qua sàng lại. Cách gọi hồn vía này được gọi là chao vía với mong muốn hồn vía người mất chết trong nước trở lại thể xác và sớm siêu thoát đầu thai. Nói chung tùy theo quan niệm ở từng vùng miền mà cách gọi hồn vía khác nhau. Mục đích cuối cùng của việc gọi hồn vía chính là giúp linh hồn người chết quay về khổ chủ. Tìm về cội nguồn để người thân thờ cúng, tránh trở thành hồn ma lang thang, không nơi cư trú. >>> Xem thêm 49 chưa qua 53 đã tới là gì? Cách kiêng cử, giải hạn Qua bài viết bên trên, chắc hẳn bạn đã biết 3 hồn 7 vía là gì rồi phải không? Sự sống của con người vốn tồn tại 2 phần thể xác và linh hồn. Mọi hoạt động đều nhờ vào linh hồn trú ngụ trên thể xác. Con người có thể mất đi 1 hoặc 2 hồn nhưng mất cả 3 hồn sẽ biến thành người thực vật, không nói, không đi, mọi thứ trên đời đều không. Tóm tắt nội dung [Hiển thị]TÌM HIỂU VỀ VIỆC GỌI HỒNMột nghi thức gọi hồn người chếtCÓ NÊN GỌI HỒN CẦU NGƯỜI ĐÃ CHẾT HAY KHÔNG?Có nên gọi hồn người đã chết không? Theo quan niệm từ xa xưa người đã chết nhưng linh hồn vẫn còn và vẫn luôn dõi theo người đang sống. Vì thế nhiều gia đình có thói quen gọi hồn người đã chết để gặp người đã khuất trò chuyện thăm hỏi. Vậy việc làm này có thực sự hữu ích hay không? Cùng theo dõi các thông tin được chúng tôi cung cấp trong bài viết dưới đây. TÌM HIỂU VỀ VIỆC GỌI HỒN Theo như quan điểm của phật giáo thì con người sẽ được cấu tạo gồm 5 phần. Tuy nhiên trong số đó có đến 4 phần không thể nhìn thấy được còn được gọi là phần hồn, phần xác chỉ giúp phần hồn được thể hiện ra bên ngoài. Đối với những người có khả năng ngoại cảm sẽ có thể kết nối được với phần hồn đó. Nếu như còn thân xác đó thì phần thân này sẽ được hiện hữu trên người còn sống, ngược lại nếu không còn thì người đã chết. Tuy nhiên cho dù đó có là phần hồn hay phần xác thì khi chết đi đều sẽ bị tan biến. Thời gian tan biến diễn ra nhanh hay chậm sẽ được dựa vào điều kiện cụ thể, sau đó phần hồn sẽ được đầu thai để được luân chuyển sang một kiếp sống mới. Một nghi thức gọi hồn người chết Gọi hồn có thể hiểu chính là linh hồn của người đã khuất mượn thân xác của một người còn sống để có thể trò chuyện với dương gian. Người ta tin rằng một người có khả năng đặc biệt sẽ có thể giao tiếp được với thế giới tâm linh. Những người này còn được biết đến với nhiều cái tên khác như nhà ngoại cảm hay thầy cúng. Phần hồn sẽ mượn thân xác của ai đó phù hợp với nguồn năng lượng mà họ đang mang để được trò chuyện cùng gia đình. Cho dù họ có nhập vào bất cứ thân xác của ai thì đó chúng chỉ là những chuyện mà người thân trong gia đình mới biết, mới có thể nhận ra bởi giọng điệu và cách nói y hệt người đã khuất. CÓ NÊN GỌI HỒN CẦU NGƯỜI ĐÃ CHẾT HAY KHÔNG? Nhiều gia đình tin rằng họ có thể giao tiếp đối với người đã khuất thông qua hình thức cầu hồn áp vong. Tuy nhiên trên thực tế cầu hồn có thể giao tiếp được với con người hay không? Dưới đây sẽ là câu trả lời dành cho gia đình Theo phật giáo thì những người đã chết rồi quan trọng nhất vẫn là được đi đầu thai để chuyển sang một kiếp sống khác. Cõi âm chỉ là một trạm dừng chân để họ chuyển từ kiếp này sang kiếp khác. Bởi chẳng ai có thể ở đó mãi mãi, do đó mà cũng không nên chú trọng đến. Cũng có những người mới mất đã có thể đầu thai, nhưng cũng có người mất có thời gian đầu thai lâu hơn vì người ở trần gian níu kéo. Có nên gọi hồn người đã chết không? Thông thường chỉ khi linh hồn xuống địa ngục hoặc lên cõi trời đều không thể gọi được. Chỉ có khi tái sinh vào cõi ngạ quỷ hay cõi thần thì mới gọi được hồn về. Tuy nhiên những bà đồng thường không đủ sức để triệu những vị thần chỉ gọi được ngạ quỷ. Do đó khi gọi hồn gặp phải người tái sinh vào ngạ quỷ gia đình cũng chẳng thể biết đó có phải là người thân hay không. Bởi những ngạ quỷ khác họ đều có thể biết được tất cả mọi chuyện trong gia đình. Việc cầu hồn chính là để hỏi người thân của mình có cần gì hay không? Có tâm nguyện gì cần thực hiện hay không? Nhưng nếu như vô tình đó không phải là người thân của chúng ta càng gợi nên lòng tham trong con người họ thì chẳng bao giờ thoát khỏi ngạ quỷ. Những người đã khuất lại chẳng thể đi đầu thai nếu như lưu luyến. Chính vì vậy mà việc cầu hồn lại vừa có lợi mà cũng vừa có hại. Thay vì việc cầu hồn gia đình nên tụng kinh cầu nguyện cho người thân chúng ta được đi đầu thai. Nếu gia đình mong muốn tốt cho người thân của mình hãy cố gắng tạo phước, tích đức cho vong hồn người đã khuất. Trên đây là toàn bộ thông tin về việc có nên gọi hồn người đã khuất hay không. Mong rằng với những chia sẻ này sẽ giúp gia đình biết được những việc nên làm tốt nhất cho người đã khuất. => Xem thêm Siêu thoát là gì? Làm gì để người thân sớm được siêu thoát?

cách gọi hồn người sống